Lịch sử hàng nghìn năm dựng, giữ nước của dân tộc ta cho
thấy, để xây dựng và bảo vệ tổ quốc (BVTQ), hầu hết triều đại đều quan tâm yếu
tố lòng dân, xây dựng thế trận lòng dân; coi yếu tố lòng dân là một trong những
thành tố đặc biệt quan trọng, cơ sở nền tảng để thúc đẩy, phát huy các thành tố
khác, có thể chuyển hóa thành sức mạnh vật chất to lớn trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tuy nhiên, cũng có triều đại không quan tâm đúng mức việc xây dựng thế trận
lòng dân nên đã gặp thất bại, đất nước lâm nguy.
Thời
kỳ bắt đầu dựng nước, giữ nước, nước Văn Lang của các Vua Hùng ngay từ đầu đã
phải đối phó với các âm mưu, ý đồ và tham vọng xâm lấn, bành trướng của các thế
lực bá quyền phương Bắc. Các Vua Hùng đã tập hợp muôn họ, phát huy
lòng yêu nước, tinh thần bất khuất, ý chí quyết tâm bảo vệ đất nước, bảo vệ dân
tộc. "Trước nạn ngoại xâm, sức dân đã lớn lên như thần Phù Đổng,... đánh
thắng kẻ thù". Trong cộng đồng
người Việt đã sớm hình thành ý thức dân tộc, ý thức giữ nước, ý thức tự lập, tự
cường, được nhà nước khơi dậy, quy tụ vào công cuộc xây dựng đất nước, chống
giặc ngoại xâm, tạo cơ sở, tiền đề cho việc hình thành, phát triển thế trận
lòng dân ở thời kỳ lịch sử tiếp theo.
Từ thế kỷ II trước Công nguyên đến thế kỷ X, nước ta rơi
vào ách thống trị, đô hộ tàn khốc của các vương triều phong kiến phương Bắc,
song nhân dân ta vẫn nung nấu tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường đấu tranh
chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc. "Tinh thần và ý chí này được những
người tiến bộ, tiêu biểu trong nhân dân khơi dậy, quy tụ, phát huy trong các cuộc
khởi nghĩa chống ách đô hộ, giành lại quyền độc lập dân tộc". Tiêu
biểu là các cuộc khởi nghĩa do hai Bà Trưng lãnh đạo chống lại sự
thống trị của Nhà Hán (40-43); tiếp theo, nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta
chống chính quyền đô hộ Nhà Hán đã nổ ra trong suốt hai thế kỷ đầu Công nguyên.
Sang thế kỷ thứ III, ngay trong thời kỳ bọn đô hộ có lực lượng hùng mạnh, đã
củng cố được ách thống trị và đang đẩy mạnh dã tâm đồng hóa, vẫn bùng nổ cuộc
khởi nghĩa lớn của Bà Triệu lãnh đạo chống lại sự đô hộ của Nhà Ngô
(248). Cuộc khởi nghĩa do Mai Thúc Loan lãnh đạo (722); khởi nghĩa của
Phùng Hưng, Phùng Hải vào năm 766; biến binh của Dương Thanh năm 819; khởi
nghĩa của Khúc Thừa Dụ đầu thế kỷ X; khởi nghĩa của Dương Đình Nghệ năm 931.
Đặc biệt, "năm 938, Ngô Quyền, vị tướng giỏi và là con rể của Dương Đình
Nghệ, được quân của các tướng, hào kiệt địa phương cùng đông đảo nhân dân trong
vùng cung cấp tình hình sông nước, địa hình, địa vật,... đánh thắng quân Nam
Hán xâm lược trên sông Bạch Đằng, giành lại quyền làm chủ đất nước,
mở ra thời kỳ xây dựng quốc gia phong kiến độc lập, kết thúc hoàn toàn thời kỳ
Bắc thuộc".
Trong thời kỳ văn minh Đại Việt, mặc dù có những lúc
thăng trầm, nhưng nhìn chung các vương triều phong kiến đã ý thức khá đầy đủ vị
trí, vai trò và phát huy được lòng dân trong giữ nước, thế trận lòng dân trong
thời kỳ này thể hiện tập trung trước hết ở tinh thần đoàn kết, ý chí quyết giữ
độc lập dân tộc của toàn dân trong xây dựng nhà nước phong kiến thống nhất,
tiến hành cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Đặc biệt là các cuộc kháng
chiến chống quân Tống lần thứ nhất của Lê Hoàn (981); kháng chiến chống quân
xâm lược Tống lần thứ hai (1075-1077) của Nhà Lý; 3 lần kháng chiến chống quân
Nguyên Mông của Nhà Trần ở thế kỷ XIII; kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi,
Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV; Phong trào Tây Sơn chống quân Thanh ở thế kỷ XVIII;
các phong trào chống thực dân Pháp xâm lược khắp từ Bắc chí Nam ở thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX.
Tinh thần yêu nước, ý chí quyết giữ độc lập dân tộc của
toàn dân đã được huy động cho các cuộc kháng chiến thắng lợi, lập thành thế trận lòng dân vững
chắc, tạo nên sức mạnh vô cùng to lớn cho các triều đại phong kiến lãnh đạo
nhân dân xây dựng và bảo vệ đất nước. Những lúc nào mà thế trận lòng dân được
xây dựng, phát huy tốt thì lúc đó các triều đại phong kiến lãnh đạo nhân dân
kháng chiến thắng lợi và xây dựng đất nước phát triển, tiêu biểu như các giai
đoạn kháng chiến chống giặc ngoại xâm và thời kỳ hoàng thịnh của Tiền Lê, Lý,
Trần, Hậu Lê, Tây Sơn. Trong các thời kỳ này, lòng yêu nước, tinh thần
đoàn kết dân tộc, ý chí chống giặc ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ đất nước của
nhân dân được các triều đại coi trọng, phát huy, quy tụ, "từ đó, tiềm lực
mọi mặt của đất nước được tăng cường, tạo sức mạnh tổng hợp to lớn để ngăn ngừa,
đẩy lùi nhiều cuộc chiến tranh, đánh thắng nhiều kẻ thù lớn, như: Tống, Mông - Nguyên, Minh, Thanh,...
bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ của đất nước". Ngược lại, lúc nào việc xây dựng thế trận
lòng dân không tốt thì lúc đó đất nước lâm nguy, tiêu biểu như Nhà Hồ (đầu thế
kỷ XV) cai trị đất nước bằng chính sách quốc trị không hợp lòng dân, xây dựng
phát triển nền nghệ thuật quân sự không dựa vào sức mạnh của toàn dân, không
xây dựng được ý chí chiến đấu trong binh sỹ,.. do đó đã để đất nước rơi vào tay
giặc Minh. "Triều đại chúa Trịnh ở phía Bắc, chúa Nguyễn ở phía Nam (thế
kỷ XV-XVIII) luôn tranh giành quyền lực giữa các họ trong triều bằng nội chiến,
khiến dân chúng lầm than oán giận, không tạo được sức mạnh của thế trận lòng
dân để phát triển đất nước. Triều đình Nhà Nguyễn thời kỳ nửa cuối thế kỷ XIX,
đã cai trị đất nước không dựa vào dân, đối lập quyền lợi của dòng họ với quyền
lợi tối cao của dân tộc,... kìm hãm phong trào chống Pháp của nhân dân,...
không tin vào sức mạnh của dân tộc, khiếp nhược trước sức mạnh của kẻ
thù", do đó đất nước đã nhanh chóng bị thực dân Pháp xâm lược.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, bước lên vũ đài
chính trị, chính thức tuyên bố sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ, chống đế quốc, phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày có
ruộng thì tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh, truyền thống, bản sắc văn hóa
dân tộc được khơi dậy, phát huy mạnh mẽ và có bước chuyển biến nhảy vọt theo hệ
tư tưởng của giai cấp công nhân. Các tầng lớp nhân dân ngày càng tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng, phát huy cao độ những giá trị tốt đẹp của truyền thống
dân tộc, tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm, tự giác chấp hành đường lối
của Đảng trong mọi việc làm, kể cả lúc thuận lợi cũng như trong hoàn cảnh khó
khăn của cách mạng.
Ở cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, với khẩu hiệu
giành độc lập dân tộc, xây dựng xã hội mới, nhân dân cả nước
đồng lòng, nhất loạt đứng lên dưới ngọn cờ của Đảng tranh đấu giành độc lập, tạo ra thế trận lòng
dân vững chắc để thực hiện tổng khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Sức mạnh của toàn
dân được phát huy cao độ, do vậy, chỉ trong thời gian ngắn, cuộc tổng khởi
nghĩa đã giành thắng lợi, chính quyền đã về tay công nông từ trung ương cho đến
các địa phương ... "Nhờ vậy, cuộc kháng chiến của ta liên tục phát triển
từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh, từng bước tạo nên thế áp đảo quân địch, kết
thúc chiến tranh bằng thắng lợi rực rỡ của Chiến dịch Điện Biên Phủ, đưa đến
việc ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt
Nam" trên
phạm vi cả nước.


Mặc dù, sau kháng chiến chống Pháp, có những sai lầm
trong cải cách ruộng đất, nhưng Đảng ta đã dám nhìn thẳng vào sự thật, nhanh
chóng sửa sai nên đã tiếp tục quy tụ được lòng dân, cả nước một lòng, toàn dân
đoàn kết xung quanh Đảng để tiến hành kháng chiến chống Mỹ và kiến quốc.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước anh dũng của nhân dân ta.Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả
tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam,
trong đó phải kể đến vai trò và giá trị to lớn của thế trận lòng dân đã được
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công xây dựng. Thế trận lòng dân trong giai
đoạn này thể hiện trước hết ở sự đồng thuận của toàn dân với đường lối tiến
hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở miền Bắc, cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam.
Cuối những năm
70 của thế kỷ XX, biên giới nước ta ở phía Tây Nam và phía Bắc bị các thế lực
thù địch phát động chiến tranh xâm lấn. Để bảo vệ biên cương Tổ quốc, Đảng ta
đã kêu gọi toàn dân, toàn quân đứng lên đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi đất
nước. "Thắng lợi của quân, dân ta ở biên giới phía Tây Nam và phía Bắc, một lần
nữa chứng minh thế trận lòng dân có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, tiếp nối xứng đáng thế trận lòng dân
trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược trước
đây".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét