Trước sự khiêu khích và chuẩn bị xâm lược
của Tống, triều đình nước Đại Việt đã ráo riết nghe ngóng và chuẩn bị nhiều
biện pháp để đề phòng. Trong thời đại mà thông tin liên lạc còn hạn chế, từ
việc xác minh rõ dã tâm của kẻ địch đến việc tìm biện pháp đối phó là không hề
đơn giản mà phải dựa trên một nền tảng tình báo, thông tin kịp thời.
Nhận biết rõ ý đồ của nước Tống, Thái úy
Lý Thường Kiệt đã tâu lên triều đình: “Ngồi
yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc”. Lời
tâu của ông nhận được sự tán thành của vua và các triều thần.Năm 1075, ngay sau
khi đi tuần biên giới phía nam chống quân Chiêm Thành trở về, Lý Thường Kiệt
bắt tay ngay vào việc chuẩn bị cuộc Bắc chinh. Lý Thường Kiệt lĩnh chức Đại
nguyên soái, thống lĩnh quân đội chuẩn bị một cuộc tấn công phủ đầu quy mô lớn
đánh vào nước Tống. Thời bấy giờ, tổng quân số thường trực nước Tống
khoảng chừng 100 vạn quân, còn quân đội thường trực nước Đại Việt có khoảng 7
vạn quân. Trong thế bị dồn vào chân tường, quân đội Đại Việt thời Lý Nhân Tông
chuẩn bị làm một việc mà đa phần người Tống khó có thể ngờ được: Một đất nước
nhỏ bé dám chủ động tấn công một đế chế đông dân, có lãnh thổ lớn hơn gấp hàng
chục lần và quân đội thường trực cũng đông hơn mười mấy lần.
Để bẻ gãy cuộc xâm lược của nước Tống ngay
từ trong trứng nước, triều đình Đại Việt đã quyết định hành động theo kế hoạch
của Thái úy Lý Thường Kiệt mở một cuộc tấn công phủ đầu quy mô lớn vào đất
Tống. Mục tiêu cụ thể của cuộc tấn công này chính là ba thành Ung Châu (thuộc
Nam Ninh, Quảng Tây ngày nay), Khâm Châu, Liêm Châu (thuộc Quảng Tây ngày nay).
Đó là những điểm tập kết lương thảo, khí giới, nhân lực của quân Tống dành cho
cuộc xâm lược Đại Việt, cũng là những đầu mối giao thông quan trọng trên tuyến
đường vận chuyển của nước Tống về phía nam. Chính Thái úy Lý Thường Kiệt là
người được giao quyền tổng chỉ huy trong chiến dịch sống còn này.
Thoạt nhìn tương quan lực lượng hai nước,
có lẽ nhiều người sẽ nghĩ cuộc tấn công của Lý Thường Kiệt vào đất Tống chẳng
khác nào tự sát, lấy trứng chọi đá. Dân số ước tính của nước Tống thời bấy giờ
khoảng 40 triệu người, quân số có tới hơn 100 vạn quân thường trực. Trong khi
đó dân số Đại Việt thời này ước tính khoảng 4 triệu người, quân thường trực có
chừng 7 vạn. Nhưng xét kỹ sẽ thấy, bấy giờ năm 1075 quân đội nước Tống đa phần
lính tráng tinh nhuệ vẫn đóng ở biên thùy phía bắc để phòng thủ hai nước Liêu,
Hạ. Số quân ở phía nam kém hơn, và cũng ít hơn. Quân số toàn lộ Quảng Tây của
Tống ít hơn quân số Đại Việt.
Nước Tống rộng lớn, để tập trung được số
quân đông cho các trận chiến cần phải có đủ thời gian di chuyển trên những
quãng đường dài để tập họp. Kể cả thông tin liên lạc từ lộ Quảng Tây tới triều
đình Tống và ngược lại cũng là cả một vấn đề lớn. Tin tức từ biên giới Tống –
Việt về đến Biện Kinh nước Tống thời bấy giờ trung bình mất khoảng một tháng
rưỡi. Nếu gặp phải những đội quân cơ động nhanh, dùng chiến thuật tốc chiến để
diệt từng điểm một trên lãnh thổ thì quân Tống ắt sẽ gặp cảnh khốn đốn vì thông
tin liên lạc chậm và không kịp điều quân cứu viện. Đó chính là chìa khóa để
nước nhỏ có thể đánh thắng, thậm chí thôn tính nước lớn.
Lý Thường Kiệt làm tổng chỉ huy toàn đội
quân Bắc chinh đông tới khoảng 10 vạn quân, xuất quân vào tháng 10.1075. Trong
đó bộ binh gồm phần lớn là quân các châu động phía Bắc do tướng Tông Đản làm
tổng chỉ huy, dưới trướng Tông Đản là các tù trưởng ở các châu động biên giới
phía bắc Đại Việt. Bao gồm Lưu Kỷ tri châu Quảng Nguyên, Hoàng Kim Mãn tri châu
Môn, Thân Cảnh Phúc tri Lạng Châu, Vi Thủ An tri châu Tô Mậu… Mỗi tù trưởng đều
có quân bản bộ chừng vài ngàn. Khi có chiến sự, triều đình sẽ điều động họ tham
chiến. Các tù trưởng đều tự cầm quân của mình, phối hợp với nhau dưới trướng
một tổng chỉ huy chung. Tổng binh lực cánh bộ binh chừng 4 vạn quân, tập kết ở
các châu Quảng Nguyên, châu Môn, Quang Lang, Tô Mậu phụ trách tấn công biên
giới Tống từ phía Tây Nam. Quân đội các châu động đi đánh trận mang cả vợ con
đi theo. Cả đoàn người vừa quân lính vừa gia đình đông đến 6 – 7 vạn người,
đánh đến đâu cướp kho lương của địch làm lương ăn đến đấy.
Chủ lực là quân chính quy triều đình gồm
khoảng 6 vạn quân do Lý Thường Kiệt đích thân chỉ huy đóng ở châu Vĩnh An với
một đội chiến thuyền hùng hậu. Thuyền chiến dùng trong chiến dịch này là loại
thuyền biển to lớn, chở theo cả tượng binh. Cánh quân này phụ trách tấn công từ
phía ven biển các châu Khâm, Liêm. Quân đội Đại Việt thời Lý tuy thời bình
không đông, nhưng khi có chiến tranh thì lập tức điều động được một số lượng
lớn quân lính. Đó là nhờ chính sách Ngụ Binh Ư Nông nổi tiếng. Các trai tráng
trong nước đều được thống kê hộ tịch gọi là các Hoàng nam. Các Hoàng nam khỏe
mạnh nhất sẽ sung quân nhưng vẫn ở nhà làm ruộng và luyện tập trong thời bình,
chỉ giữ lại một số quân nhất định trong đội ngũ. Số quân làm ruộng sẽ được điều
động khi có chiến tranh.
Dân chúng Đại Việt thời Lý rất thượng võ,
người dân đa phần tráng kiện. Khi có chiến tranh lớn đe dọa đến tồn vong của
đất nước thì tất cả Hoàng nam sẽ nhập ngũ, số dân chúng còn lại cũng tổ chức
thành các đội dân binh hay giúp việc hậu cần. Nhờ chính sách hộ tịch chặt chẽ
và chính sách quân ngũ ưu việt, dân tộc Việt thời Lý thực sự là một dân tộc
chiến binh. Thời điểm Lý Thường Kiệt tấn công phủ đầu nước Tống, cấm quân tinh
nhuệ bậc nhất của Đại Việt không tham chiến mà nhận nhiệm vụ trú phòng tại kinh
thành Thăng Long vì quân vương còn nhỏ. Tuy vậy đa phần quân lính trong số 6
vạn quân theo Lý Thường Kiệt bắc chinh cũng là những quân lính dày dặn trận
mạc, chất lượng hơn hẳn quân Tống ở biên thùy phía nam.
Đầu tiên, cánh quân của tù trưởng Vi Thủ
An từ Tô Mậu được lệnh tấn chiếm trại Cổ Vạn của Tống vào ngày 27.10.1075 mở
màn cho chiến dịch. Trại này nhanh chóng bị chiếm. Đó là bước thăm dò và là mồi
nhử quân Ung Châu rời thành. Quân Tống thấy quân châu động chiếm trại, đã điều
quân đồn trú từ thành Ung Châu xuống các trại biên giới để phòng bị. Nhưng mặc
khác vì thấy quân tấn công chỉ là quân của tù trưởng, phía Tống vẫn cho rằng
đây chẳng qua là vụ đánh phá mang tính cục bộ ở biên giới. Vua Tống hạ chỉ cho
quan lại biên giới không làm lớn chuyện hòng che giấu âm mưu chuẩn bị đánh
chiếm nước ta.
Nắm thời cơ, vào tháng 11.1075 bộ binh Đại
Việt tấn công chớp nhoáng trên toàn tuyến biên giới. Các trại Hoành Sơn, Vĩnh
Bình, Thái Bình, Tây Bình của Tống nằm gần biên giới lần lượt bị chiếm nhanh
chóng. Quân Tống bị thiệt hại nặng nề, hầu như không còn quân che chắn hướng Tây
Nam cho thành Ung Châu. Các tướng giữ trại của Tống là Lâm Mậu Thăng, Tô Tá,
Ngũ Cử, Quách Vĩnh Nghiêm đều bị giết. Tông Đản cho hội quân thẳng tiến thành
Ung Châu như vào chốn không người. Cánh quân của Tông Đản vừa hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ chiếm cứ các châu động biên thùy làm bàn đạp tấn công thành Ung
Châu, vừa dẫn dụ và tiêu diệt một phần lớn sinh lực quân đồn trú từ thành Ung
Châu kéo tới. Ngoài ra, cánh quân này cũng hoàn thành nhiệm vụ nghi binh, đánh
lạc hướng quân Tống. Tạo điều kiện cho đại quân của Lý Thường Kiệt đánh úp từ
phía Đông Nam thuận lợi.
Trong khi các hướng quân Tống đang dồn sự
chú ý về phía cánh quân phía Tây của Tông Đản thì giữa tháng 11.1075 Lý Thường
Kiệt bất ngờ xuất kích từ châu Vĩnh An, dùng binh thuyền vượt biển đổ bộ lên
cảng Khâm. Ngày 20.11.1075 Quân Đại Việt nhanh chóng tràn vào thành Khâm Châu
bắt quan giữ thành Khâm Châu là Trần Vĩnh Thái cùng toàn bộ thuộc hạ, thu nhiều
của cải. Khi quân của Lý Thường Kiệt tấn công vào thành, Trần Vĩnh Thái vẫn
chưa hay biết mà đang bày rượu uống. Thành Liêm Châu bây giờ mới phòng bị thì
đã muộn, ba ngày sau Liêm Châu cũng bị hạ gọn gàng bởi lực lượng Đại Việt đông
hơn gấp nhiều lần. Quan giữ thành là Lỗ Khánh Tôn cùng thuộc hạ bị giết chết.
Quân Đại Việt bắt hơn 8000 tù binh tại thành Liêm Châu, ép làm khuân vác thu
gom của cải đem xuống thuyền. Vậy là cánh quân của Lý Thường Kiệt chiếm trọn
hai châu quan trọng của Tống là Khâm, Liêm mà chẳng thiệt hại gì lớn.
Cùng
lúc với cuộc tấn công bằng đường biển, một cánh quân chính quy triều đình cũng
xuất phát từ châu Vĩnh An theo đường bộ tấn chiếm các trại Như Hồng, Như Tích,
Để Trạo của Tống và nhanh chóng chiếm lĩnh các trại này, các chúa trại phía
Tống đều bị giết. Mọi thứ diễn ra đúng như toan tính của Thái úy Lý Thường
Kiệt.
Chiến cuộc Ung – Khâm – Liêm diễn ra vô cùng chớp nhoáng và nhanh
chóng nhưng triều đình Tống vẫn chưa có hành động gì nhiều do thông tin chậm.
Trong khi quân Tống đã bị đánh tan tác ở Khâm Châu, Liêm Châu và tuyến biên
giới Ung Châu trong tháng 11.1075 thì đến đầu tháng 12.1075 triều đình nhà Tống
mới nhận được tin quân Đại Việt hội quân gần biên giới. Cứ thế các tin tức thất
thủ Khâm Châu, Liêm Châu … về đến triều đình Tống đều phải mất khoảng thời gian
một tháng sau khi sự việc diễn ra. Nhờ có những sự chậm trễ này mà quân ta có
thêm phần lợi thế.
Cùng với cánh quân của Tông Đản ở phía Tây Nam, cánh quân của Lý
Thường Kiệt từ Khâm Châu vượt qua Thập Vạn Đại Sơn thẳng tiến thành Ung Châu từ
phía Đông Nam. Trước khi tiến quân ông hạ lệnh giết hết 8.000 tù binh vì không
đủ quân trông coi số tù binh này. Đồng thời ông cho một cánh quân từ Liêm Châu
tiến về phía Đông Bắc đánh chiếm Bạch Châu, Dung Châu để làm nơi trú chân đề
phòng viện binh của Tống, giết chết hàng loạt quan quân giữ thành. Tuy mục tiêu
chính yếu tiếp theo của cuộc tiến công là hạ thành Ung Châu nhưng với việc tiến
chiếm các thành Bạch Châu, Dung Châu thì quân Đại Việt càng làm cho sự phán
đoán của quân Tống thêm mù mờ.
Người Tống vừa lo sợ quân Đại Việt chiếm Ung Châu, vừa ngại Lý
Thường Kiệt sẽ tiến quân về phía đông bắc để chiếm các thành trì khác thuộc lộ
Quảng Đông. Điều này càng làm cho lực lượng quân Tống thêm phân tán, vua Tống
không dám điều quân từ các thành trì lộ Quảng Đông xuống để đánh với quân Đại
Việt mà hạ lệnh cho các thành này cố thủ. Một lần nữa quân Tống trúng kế nghi
binh của Lý Thường Kiệt. Do đó, quân Đại Việt rảnh tay dốc gần như toàn lực bao
vây thành Ung Châu. Nhìn chiến cuộc Ung – Khâm – Liêm sẽ thấy rằng quân Đại
Việt luôn áp đảo về quân số tại điểm nóng chiến trường, trong khi đó tổng lực
lượng quân Tống ở hai lộ Quảng Tây, Quảng Đông so với quân Đại Việt cũng không
đến mức quá chênh lệch nhưng luôn luôn bị phân tán dẫn đến hoàn toàn bị
áp đảo về quân số.
Vậy là cả hai cánh quân Đại Việt đều ra quân đại thắng, thừa thế
chẻ tre thẳng tiến thành Ung Châu. Thành này thời bấy giờ nổi tiếng là cứng và
chắc, thành cao hào sâu, khí giới tối tân bậc nhất. Cuộc chiến khốc liệt thật
sự đang chờ đón đoàn quân Đại Việt.
Sau khi hạ các thành Khâm, Liêm, Bạch, Dung và các điểm phòng thủ
tuyến biên giới, hai cánh quân của Tông Đản và Lý Thường Kiệt đã tiến quân bao
vây thành Ung Châu . Lo ngại dân chúng nước Tống vì tự tôn dân tộc mà ứng nghĩa
ngăn cản quân đội Đại Việt, Lý Thường Kiệt cho soạn thảo các văn bản kể tội
triều đình Tống, nêu rõ danh nghĩa xuất quân của Đại Việt gọi là Phạt Tống Lộ
Bố Văn rồi cho người niêm yết dọc đường tiến quân. Có nhiều bản Bố Văn khác
nhau. Một trong những bản Bố văn điển hình viết :
"Trời sinh ra dân chúng, Vua hiền ắt hoà mục. Đạo làm
chủ dân, cốt ở nuôi dân. Nay nghe vua Tống ngu hèn, chẳng tuân theo khuôn phép
thánh nhân, lại tin kế tham tà của Vương An Thạch, bày những phép "thanh
miêu", "trợ dịch", khiến trăm họ mệt nhọc lầm than mà riêng thoả
cái mưu nuôi mình béo mập.
Bởi tính mệnh muôn dân đều phú bẩm tự trời, thế mà bỗng sa
vào cảnh éo le độc hại. Lượng kẻ ở trên cố nhiên phải xót. Những việc từ trước,
thôi nói làm gì!
Nay bản chức vâng mệnh quốc vương chỉ đường tiến quân lên
Bắc, muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có ý phân biệt quốc thổ, không phân
biệt chúng dân. Phải quét sạch nhơ bẩn hôi tanh để đến thuở ca ngày Nghiêu,
hưởng tháng Thuấn thăng bình!
Ta nay ra quân, cốt để cứu vớt muôn dân khỏi nơi chìm đắm.
Hịch văn truyền tới để mọi người cùng nghe. Ai nấy hãy tự đắn đo, chớ có mang
lòng sợ hãi !"
Một đoạn Bố văn khác thì viết: “Có
những dân Giao Chỉ làm phản rồi trốn sang Trung Quốc. Các quan lại dung nạp và
giấu đi. Ta đã khiến sứ sang tố giác các việc ấy, quan coi Quế Châu không chịu
trả lời. Ta lại sai sứ vượt bể sang tố cáo với Quảng Châu, quan coi Quảng Châu
cũng không chịu báo. Vì vậy, quân ta tới đuổi bắt dân trốn ấy...”
Lại có đoạn Bố văn tố cáo việc triều đình Tống chuẩn bị đánh Đại
Việt: “… Quan coi Quế Châu đã
kiểm điểm dân các động và đã tuyên bố rõ rằng muốn sang đánh Giao Chỉ…”
Những bản Bố văn truyền ra đem lại nhiều hiệu quả. Đây là đòn dân
vận cao tay của Lý Thường Kiệt ngay trên lãnh thổ của nước đối địch. Việc tiến
quân được thuận lợi, quân ta chỉ phải đương đầu với quân triều đình Tống mà
không vấp phải sự kháng cự tự phát của dân chúng, nhất là các tuyến hậu cần
được an toàn.
Hiệu quả của các bố văn được người Việt đời sau kể lại : “Dân Tống thấy lời tuyên cáo, đều
vui mừng, đem trâu rượu khao quân ta. Từ đó, mỗi lúc dân Tống thấy hiệu cờ
Thường Kiệt đàng xa, thì nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam, rồi cùng
nhau bày hương án bái phục bên đường. Nhờ đó mà uy thanh quân ta lan khắp”.
Cánh quân của Lang trung tướng quân Tông
Đản đã tới chân thành Ung Châu trước vào ngày 18.1.1076. Ngay sau đó mấy ngày
cánh quân Lý Thường Kiệt cũng kịp tới hội quân. Quân Đại Việt hợp sức vây thành
tới mấy vòng. Tri châu Tô Giám dựa vào thành cao hào sâu, khí giới lương thực
dồi dào để cố thủ. Do trúng kế của quân Đại Việt gây tổn thất nhiều quân ở
tuyến biên giới nên binh lực Ung Châu còn khá ít, quân chính quy chỉ còn có
2.800 người. Khi quân Đại Việt rầm rộ kéo tới, dân chúng thành Ung Châu sợ hãi
mà trở nên hỗn loạn, chen nhau tìm cách chạy trốn. Tô Giám cho quân lính tập
họp dân chúng, đem hết của cải công và của riêng ra khích lệ, rồi dùng lời phủ
dụ : “Khí giới ta đã dự bị
đủ, lương thực trữ cũng không thiếu. Bây giờ giặc đã đến dưới thành. Chỉ còn
cách cố thủ lấy thành để đợi ngoại viện, ắt là ta sẽ thắng. Nếu có một ai chạy,
thì lòng dân sẽ náo động, và đại sự sẽ hỏng. Nếu các ngươi nghe ta, thì sẽ được
hậu thưởng. Nếu có ai không nghe mà bỏ chạy, thì ta sẽ chém”. Dân chúng toàn thành do vậy mà răm rắp
nghe theo. Giám gom cả quân chính quy lẫn dân binh được khoảng 5000 quân chiến
đấu, điều động toàn bộ dân chúng thành Ung Châu chừng gần 6 vạn người làm phu
phen, trợ chiến và tham gia thủ thành.
Quân Đại Việt ban đầu dùng máy bắn đá bắn
vào thành, giết nhiều quân dân Tống. Lại dùng thang vân thê (thang lắp trên xe
đẩy) trèo lên tường thành thì bị quân Tống dùng đuốc dầu và hỏa tiễn đốt cháy
thang. Thành cao, tượng binh Đại Việt không phát huy được nhiều. Tô Giám nhân
lúc sơ hở dùng 100 quân cảm tử chèo thuyền nhỏ men theo sông Ung Giang tập kích
quân ta làm thiệt hại 10 voi chiến và hai viên tướng, toàn bộ quân tập kích cũng
bỏ mạng. Quân Ung Châu dùng nỏ Thần tý – một loại nỏ lớn bắn một phát được
nhiều mũi tên với sức công phá lớn bắn vào quân Đại Việt công thành gây thương
vong nhiều. Quân Đại Việt không giáp chiến được, lại lui ra xa dùng máy bắn đá
bắn vào thành, vây bức không cho quân dân thành Ung Châu ra ngoài thành lấy
nước.
Lưu Di ở thành Quế Châu hay tin Ung Châu
bị vây, sai viên Đô giám Trương Thủ Tiết đem quân đi cứu viện. Trương Thủ Tiết
sợ quân Đại Việt sẽ hạ thành Ung Châu sớm, lại nghe tin báo quân Đại Việt rất
đông nên cho dừng quân dọc đường nghe ngóng được thua chứ không tiến nhanh.
Trương Thủ Tiết dẫn quân đi đường vòng từ Quế Châu tới Tân Châu, đóng quân ở
trại Khang Hòa theo dõi động tĩnh. Tô Giám sai người đem thư bọc sáp vượt vòng
vây cấp báo cho viên Đề điểm hình ngục Tống Cầu. Tống Cầu nhận thư, sang đốc
thúc Trương Thủ Tiết. Thủ Tiết bấy giờ mới tiến quân. Lý Thường Kiệt đang vây
Ung Châu thì nhận được tin từ quân do thám rằng quân cứu viện đang trên đường
tới, liền chia quân đặt mai phục ở ải Côn Lôn, một nơi hiểm yếu nằm giữa đường
từ Tân Châu tới Ung Châu. Trương Thủ Tiết dẫn quân tới Côn Lôn bị đánh úp không
kịp trở tay, quân Tống phút chốc tan chạy, bị bắt và bị giết rất nhiều. Trương
Thủ Tiết bị chém ngay tại trận tiền cùng các quan tướng khác là Đề cử Tả Giang
Ôn Nguyên Dụ, Đô giám Hồ Nam Trương Biện, Tuần kiểm các châu Ung - Tân Hứu Dự,
Tuần kiểm các châu Liễu – Tân – Tượng Vương Trấn. Đạo viện binh quan trọng này
của Tống bị diệt, Ung Châu đã hoàn toàn bị cô lập.
Trong khi quân ta vây thành Ung Châu thì
vua Tống mới nhận được tin Khâm Châu thất thủ. Triều đình nước Tống náo động.
Ty kinh lược Quảng Nam Tây Lộ nước Tống dời về thành Tượng, xin cấp thêm 2 vạn
quân tiếp viện, 1 ngàn ngựa và một tháng lương cùng khí giới để chống quân ta.
Vua Tống lệnh cho toàn lộ Quảng Nam Đông Lộ (Quảng Đông), Quảng Nam Tây Lộ
(Quảng Tây) tăng cường bố phòng, cố thủ nơi hiểm yếu. Liền sau đó hai ngày thì
tin Liêm Châu thất thủ về tới kinh đô nước Tống. Vua Tống tỏ ra bối rối, ra hai
chiếu chỉ ngược ý nhau cho Ti kinh lược Quảng Tây. Ban đầu vua Tống hạ chiếu : “Nếu xem chừng có quân Giao Chỉ
tới đâu mà không đủ quân giữ, thì chỉ giữ mấy chỗ hiểm yếu mà thôi…” nhưng rồi lại dặn : “Nếu quân bỏ thành mà đi chỗ khác,
thì lo rằng lòng dân rối sợ. Hãy bảo các quan ti đều phải trở lại thành mình” . Sau đó, triều đình Tống đã lên kế
hoạch chấn chỉnh và phản công. Lưu Di bị cắt chức Kinh lược sứ, Thạch Giám được
cử thay. Vua Tống cho tuyển thêm tân binh, dồn quân, chuyển lương tới thành Quế
Châu.
Mặc khác, Tống triều vẫn tự tin là thành
Ung Châu cao và chắc, cho rằng quân Đại Việt không thể hạ nổi. Vương An Thạch
tâu với vua Tống: “Thành Ung
Châu rất chắc, quyết là không phá nổi”. Vua
Tống tin vậy, nhân đó chuẩn bị một đội quân đông đảo rút từ phía Bắc nước Tống
giao cho tướng Triệu Tiết chỉ huy dự định sẽ đánh thẳng vào Đại Việt, nhằm gián
tiếp buộc Lý Thường Kiệt phải rút quân, giải vây cho Ung Châu và để báo thù,
thôn tính nước Đại Việt như chiến lược vạch ra trước đó. Đội quân này chủ yếu
được rút từ biên giới phía Bắc nước Tống, tổng quân số khoảng 10 vạn với những
tướng lĩnh dày dạn kinh nghiệm. Ngoài chánh tướng là Triệu Tiết, vua Tống còn
cử hoạn quan Lý Hiến và tướng Yên Đạt làm phó tướng.
Trong khi đại bộ phận quân chủ lực của Đại
Việt còn giằng co với quân Tống ở thành Ung Châu thì chủ trương dùng một đạo
quân đánh thẳng vào lãnh thổ Đại Việt là một đòn hiểm của Tống triều. Thành Ung
Châu trong chiến lược của vua tôi nước Tống vốn là nơi tập kết chủ chốt của cải
và nhân lực để tấn công Đại Việt, thì nay trở thành một điểm cầm chân quân chủ
lực Đại Việt để đại quân Tống tấn công bằng con đường khác đánh thẳng vào nước
Đại Việt. Từ đây chiến sự thành Ung Châu không chỉ là vấn đề đánh tan một căn
cứ hậu cần xâm lược của nước Tống mà yêu cầu đặt ra đối với đạo quân dưới trướng
Lý Thường Kiệt là phải hạ thành sớm và có phương án bảo toàn lực lượng để kịp
thời bố trí phòng thủ ở trong nước, chuẩn bị đón đại quân Tống sắp tiến sang.
Bởi nếu không hạ được thành Ung Châu mà sớm rút quân, mục tiêu chiến lược của
cuộc Bắc phạt coi như không hoàn thành trọn vẹn và từ Ung Châu quân Tống sẽ có
một bàn đạp thuận lợi để xâm lược. Còn nếu tốn quá nhiều thời gian hay quân lực
cho chiến sự Ung Châu, Đại Việt sẽ bị hở sườn và nguy cơ bị đánh úp trong lúc
quân chủ lực không có mặt trong nước, nguy cơ mất nước lại càng lớn hơn.
Dù bị bất ngờ và tổn thất nặng nề ở vùng
biên thùy phía nam bởi cuộc tấn công của Lý Thường Kiệt, nước Tống vẫn còn tiềm
lực rất lớn. Vua Tống và Vương An Thạch bàn nhau dựa vào sự kiên cố của thành
Ung Châu để cầm chân quân Đại Việt, rồi cho một đạo quân lớn đi đường khác đánh
thẳng vào lãnh thổ Đại Việt. Vương An Thạch thay vua Tống soạn tờ thư chiêu
hàng gọi là Thảo Giao Chỉ Chiếu để dùng cho việc khuất phục tinh thần quân dân
Đại Việt, cũng là đối đáp lại những lời lẽ của các văn bản Phạt Tống Lộ Bố Văn
mà Lý Thường Kiệt đã cho yết bảng dọc đường tiến quân. “Thảo Giao Chỉ Chiếu” có
những lời lẽ thể hiện rõ tư tưởng hống hách của nước lớn, ra vẻ bề trên vừa xoa
dịu dụ dỗ, vừa đe dọa vũ lực đối với quân dân Việt. Lời chiếu như sau :
“Xét lại nước An Nam đời đời hưởng vương
tước, các triều trước đối đãi khoan hậu, khi nào cũng bao dung tha thứ, mãi đến
ngày nay. Nay lại xâm phạm thành ấp, sát hại quân dân, đã phạm pháp kỷ thì
không thể tha thứ được. Vâng mệnh trời mà chinh phạt, tức là có danh nghĩa. Vậy
sai Triệu Tiết sung làm chức An Nam đạo hành dinh, Mã Bộ Quân Đô Tổng Quản Kinh
Lược Chiêu Thảo Sứ, Lý Hiến sung làm chức Phó Sứ, Yên Đạt sung làm chức Mã Bộ
Phó Sứ Đô Tổng Quản , thuận theo thời lệnh mà dấy binh đường thuỷ và đường bộ
tiến quân. Ý trời tỏ ra giúp thuận, hiện ra những điểm chỉ vẽ rõ ràng.
Người nào biết hối hận, đều giữ khí khái đối địch quân thù, những nơi nào quân
vua tới sẽ không tổn hại đến thường dân và tàn sát kẻ bại trận.
Hỡi nhân dân đã lâu ngày sống trong cảnh
lầm than, nếu biết khuyên dụ chủ mình nội phụ, xuất chúng qui phục, bắt giặc
hiến cống, đem mình hiếu thuận, thì sẽ được thưởng tứ tước lộc, vinh hiển bội
phần, những tội lỗi trước đây đều được ân xá. Càn Đức đương còn ấu trĩ, chính
lệnh không do y mà ra, khi nào lai triều cũng sẽ được tiếp đãi trọng hậu như
trước. Lời ta không sai, chớ có nghe lầm. Gần đây, ta nghe nhân dân bị bóc lột
cực khổ, ta đã căn dặn sứ thần truyền đạt ân chiếu của ta, sự tàn bạo và thuế
nặng đều được tẩy trừ. Mong rằng một nước chư hầu của ta luôn được yên vui.”
Thành Ung Châu kiên cố và có nhiều quân
lương, khí giới do đây là nơi tập kết của cải của nước Tống để đánh Đại Việt.
Tô Giám lại là một tướng lão luyện của Tống. Y dùng tài sản phân phát cho dân
chúng trong thành, dùng lời khích lệ tinh thần khiến cho cả thành đồng lòng cố
thủ. Lý Thường Kiệt vây thành ngót hơn một tháng không thể hạ nổi. Quân Đại
Việt nghĩ cách đào hầm xuyên qua hào sâu và tường thành để đột nhập vào trong
thành. Quân Ung Châu phát hiện được hầm, Tô Giám cho phóng hỏa đốt ngay miệng
hầm khiến quân Đại Việt lại bị thương vong. Quân Đại Việt dùng hỏa công, bắn
các loại đạn gây cháy từ máy bắn đá và hỏa tiễn vào trong thành gây nhiều
thương vong cho dân chúng và binh lính Tống. Thành Ung Châu bị cháy nhiều nơi,
không đủ nước dập lửa.
Trong thành lại bị thiếu nước uống, dân
chúng phải uống nước dơ bẩn, dịch bệnh do đó mà bùng phát khiến rất nhiều dân
chúng bị chết. Dù vậy tường thành vẫn không hạ được. Đạn từ máy bắn đá thời kỳ
này tỏ ra không đủ sức đánh thủng tường thành Ung Châu . Cuối cùng, Lý Thường
Kiệt dùng kế thổ công. Ông sai quân lấy đất xúc vào bao, làm đến hàng vạn bao
đất rồi bắt tù binh người Tống liều mạng vượt qua mưa tên khiên bao đất xếp
dưới chân thành để tạo thành bực thềm. Chẳng mấy chốc đã làm được một đường dốc
cao tới mặt thành. Quân Đại Việt theo đó tràn vào thành như nước vỡ bờ, thế
không ai địch nổi. Tô Giám vẫn liều chết lãnh đạo quân và dân chúng thành Ung Châu
chống cự, khi thấy không còn hy vọng bèn quay về nhà giết hết người nhà tổng
cộng 36 người, chôn xác xuống hố rồi tự thiêu chết. Tô Giám liều mình như vậy
khiến dân chúng thành Ung Châu cảm kích mà không chịu đầu hàng, họ đã chiến đấu
đến cùng trong tuyệt vọng. Tai ương đã ập lên tất cả họ, một cuộc thảm sát đã
diễn ra.
Lý Thường Kiệt để hoàn thành cuộc chiến
tiêu hao đã hạ lệnh giết tất cả người trong thành. Ngày 1.3.1076, thành Ung
Châu bị hạ sau 42 ngày cố thủ. Số người thành Ung Châu bị giết đến 58.000
người. Về phía quân Đại Việt cũng có tổng thiệt hại đến hơn vạn người và một số
voi chiến trong chiến cuộc Ung Châu. Trước đây, Tô Giám là người đã từng khuyên
Lưu Di, Thẩm Khởi không nên khiêu khích Đại Việt vì sợ quân Đại Việt sẽ tràn
sang đánh Tống trước nhưng bị gạt bỏ ngoài tai, lại còn bị khiển trách. Nay quả
thật quân ta chủ động tấn công trước, căn cứ chiến lược dùng cho việc xâm lăng
là thành Ung Châu phút chốc bị đập tan, hàng vạn quân dân Tống bị giết. Với
việc thành Ung Châu bị hạ, ta sẽ thấy mọi toan tính chiến lược của nước Tống về
sau đều bị đảo lộn. Dù cuộc tấn công này đối với quân Đại Việt mang mục đích tự
vệ chính đáng, cũng phải nói rằng trong số những người nước Tống bị giết có
nhiều người oan uổng. Họ cũng như quân dân Đại Việt, là nạn nhân trong tham
vọng bá quyền của Tống triều.
Lý Thường Kiệt hay tin quân Tống sắp đưa
quân sang đánh Đại Việt, liền chuẩn bị một kế hoạch rút quân hoàn mỹ. Ông sai
lấy đá lấp sông Ung Giang, một tuyến đường thủy huyết mạch ở phía nam nước
Tống. Để đánh lạc hướng quân Tống trước khi rút về nước, Lý Thường Kiệt phao
tin là sắp đem quân đánh Tân Châu. Quan giữ thành Tân Châu là Cổ Cắn Lặc nghe
tin bỏ cả ấn tín mà chạy trốn. Quân Đại Việt chủ động rút lui về nước lo chuẩn
bị về phòng thủ một cách nhanh gọn. Một số thám tử Đại Việt được phái cải trang
thành nhà sư, nạn dân, lái buôn người Tống, đi khắp nơi do thám. Quân Đại Việt
đốt trại, thiêu hủy lương thực, phá thành, phá các đồn lũy, mang theo nhiều của
cải và tù binh rút về nước. Không một đội quân Tống nào dám đuổi đánh do trúng
kế của Lý Thường Kiệt, lo quân ta tiếp tục đánh Tân Châu nên các đội quân chính
quy vẫn ở thế thủ. Những của cải không đem theo hết được đều bị quân Đại Việt
thiêu hủy. Những tù binh không đem theo được cũng bị giết. Đó cốt là để tàn phá
bàn đạp mà nước Tống định dùng cho cuộc xâm lược Đại Việt. Cả một vùng rộng lớn
thuộc lộ Quảng Tây tiêu điều. Tổng cộng trong toàn bộ chiến dịch đánh Tống,
quân Đại Việt đã giết hơn 10 vạn quân dân Tống.
Khoảng cuối tháng 3.1076 Lý Thường
Kiệt đã an toàn rút hết quân về nước. Đội quân thiện chiến đã theo ông bắc phạt
không có nhiều thời gian để nghỉ ngơi hay mừng chiến thắng. Bởi mọi người hiểu
rằng cuộc chiến sắp tới sẽ còn rất cam go. Triều đình nhà Lý bắt tay ngay
vào việc điều động quân dân Đại Việt chuẩn bị bước vào giai đoạn chiến đấu mới
mang ý nghĩa quyết định vận mệnh dân tộc – đón đánh đội quân viễn chinh Tống
trên lãnh thổ Đại Việt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét