Sau khi hoàn thành cuộc bắc phạt đánh phủ
đầu nước Tống và rút quân an toàn về nước, Lý Thường Kiệt – vị chỉ huy tối cao
của quân đội Đại Việt đã biết chắc thế nào quân Tống cũng sẽ tiến sang báo thù.
Ông đã cùng với triều đình và quân dân cả nước tích cực chuẩn bị để quyết chiến
với quân xâm lược. Trai tráng cả nước được tuyển mộ vào đội ngũ, ngày đêm tập
luyện chiến đấu.
Ở biên giới, thế phòng thủ của Đại Việt
chủ yếu dựa vào các lực lượng thổ binh. Tù trưởng Lưu Kỷ giữ
châu Quảng Nguyên. Phò mã Thân Cảnh Phúc ở châu Quang Lang đóng quân tại động
Giáp giữ ải Giáp Khẩu và ải Quyết Lý. Châu Môn có quân của các tù trưởng Hoàng
Kim Mãn, Sầm Khánh Tân, Nùng Thuận Linh án ngữ tuyến đường bộ từ Bình Gia đến
Thái Nguyên. Vi Thủ An giữ đường từ Tư Lăng đến Lạng Châu. Trong các đội quân
này mạnh nhất là quân của Lưu Kỷ và Thân Cảnh Phúc.
Quân của các tù trưởng châu động trên là
những lực lượng người dân tộc thiểu số Tày, Nùng. Họ là những chiến binh can
đảm và võ nghệ cao cường, lại thông thuộc địa thế, thạo chiến đấu trên những
vùng núi non. Đó là những lực lượng đáng gờm đối với bất kỳ đội quân nào. Tuy
nhiên có một yếu điểm là những sắc dân biên cương này không hoàn toàn trung
thành với Đại Việt. Họ là những xứ tự trị, đối với vương triều Lý về căn bản
vẫn chỉ là một liên minh lợi ích. Các đời vua triều Lý thường cố gắng chiêu dụ
các tù trưởng bằng tước vị, tiền bạc và hôn nhân để mong có được sự quy phục và
đã mang lại nhiều hiệu quả.
Sự đoàn kết như những người đồng chủng
đồng văn giữa người miền đồng bằng trung tâm và người miền thượng du về căn bản
vẫn khá lỏng lẻo. Chính vì vậy, khi bố trí một thế trận chống ngoại xâm, Lý
Thường Kiệt phải chọn địa bàn châu thổ Sông Hồng gần kinh thành Thăng Long làm
trọng tâm với lực lượng đóng vai trò then chốt là các đội quân chính quy người
Kinh sống ở đồng bằng nước Đại Việt. Đó là những đạo quân đặc biệt
trung thành, có thể chiến đấu tới cùng trong mọi hoàn cảnh để bảo vệ đất nước.
Đặc biệt, vai trò của thủy quân là tối
quan trọng trong thế trận chống ngoại xâm. Có thể nói đa phần quân chính quy
Đại Việt là lính thủy đánh bộ hoặc thủy quân. Tướng Lý Kế Nguyên nắm giữ một
đạo thủy quân tinh nhuệ đóng tại biên thùy châu Vĩnh An để đề phòng quân Tống
dùng thuyền chở quân vượt biển hoặc phối hợp với bộ binh của tướng Quách Quỳ.
Lý Kế Nguyên phụ trách che chắn cho cả một vùng bờ biển phía đông bắc Đại Việt,
với những tuyến đường thủy yếu huyệt là vịnh Đông Kênh, cửa biển Bạch Đằng.
Quân số đạo thủy quân mà Lý Kế Nguyên chỉ huy ước chừng dưới 2 vạn quân.
Hai hoàng thân Hoằng Chân, Chiêu Văn nắm
giữ 2 vạn thủy quân với 400 chiến thuyền đóng tại Vạn Xuân. Từ vị trí này,
chiến thuyền Đại Việt có thể kiểm soát cả một hệ thống sông ngòi che chắn cho
thành Thăng Long từ phía bắc, bao gồm các con sông lớn là sông Lục Nam, sông
Thương, sông Đuống, sông Thái Bình, sông Bạch Đằng … đặc biệt là sông Cầu. Con
sông Cầu thời bấy giờ là một con sông lớn, là nơi mà các tuyến đường quan trọng
từ bắc xuống nam đều phải đi qua, với bến đò Như Nguyệt gần như là đường độc
đạo để cho một đội quân lớn có thể vượt sông. Vào thời kỳ này, bến đò này là
một chốt giao thông huyết mạch, cùng với vùng lân cận là điểm khả thi nhất,
thậm chí gần như là sự lựa chọn duy nhất cho quân Tống nếu muốn vượt sông Cầu
đánh chiếm Thăng Long.
Chính vì đây là yếu địa, Lý Thường Kiệt đã
cho xây dựng ở đây một chiến tuyến quy mô dài gần 30 km, cùng các điểm phụ trợ
nằm ở bờ Nam. Chiến tuyến Như Nguyệt là một chuỗi những cụm chiến lũy được làm
bằng gỗ, tre, nứa được liên kết bằng vữa đất. Chiến lũy được đắp theo những nơi
được đánh giá là có thể vượt sông. Bên ngoài các đoạn chiến lũy, lớp lớp những
chông tre được cắm kín bờ sông chĩa mũi nhọn về phía Bắc. Ngoài ra còn có những
hầm chông ngầm tạo thành những cái bẫy. Những nơi bụi rậm hay bờ dốc
cao thì không có chiến lũy, chỉ có quân mai phục đề phòng.
Quân Đại Việt đóng thành cụm quân lớn ngay
tại bến đò. Cùng với đó là một chuỗi liên hoàn các cụm quân dọc theo chiến
tuyến để canh chừng và liên lạc, hỗ trợ cho nhau. Có bốn cụm quân lớn dọc sông
Cầu là Như Nguyệt, Thị Cầu, Phấn Động, Vạn Xuân được gấp rút chuẩn bị sẵn sàng
chiến đấu. Quân phòng thủ trên bờ và thủy quân dưới sông từ căn cứ Vạn Xuân
phối hợp với nhau tạo thành chiến tuyến mang tính chất sống còn đối với Đại
Việt. Tống quân số cho chiến tuyến này chừng 6 vạn.
Trong đó, có 2 vạn thủy quân cùng 400
chiến thuyền ở căn cứ Vạn Xuân, 4 vạn quân còn lại đóng thành nhiều cụm liên
hoàn dọc theo chiến tuyến . Các cỗ máy bắn đá cũng được bố trí ở những trọng
điểm dọc bờ sông. Ngay tại bờ nam bến Như Nguyệt còn có 300 chiến thuyền bày
trận. Cấm quân tinh nhuệ nhất dùng để bảo vệ kinh thành cũng được điều lên tham
chiến. Ngay sau lưng chiến tuyến chính là con đường tiến thẳng vào kinh thành
Thăng Long.
Ở vùng lãnh thổ phía nam, Đại Việt còn
chịu sự đe dọa của Chiêm Thành và Chân Lạp. Hiện tại, sử liệu về việc chuẩn bị
cho mặt trận phía nam này hầu như không có gì. Chúng ta thấy rằng quân Đại Việt
với những đơn vị đông đảo nhất đã tập trung cho mặt trận phía bắc chống quân
Tống. Nhưng hẳn là vùng phía nam cũng phải có số quân phòng thủ nhất định để đề
phòng liên quân Chiêm Thành – Chân Lạp. Ngoài số lộ quân (quân địa phương thời
Lý) phòng giữ các châu, trấn phía nam, Đại Việt còn sử dụng tù binh Tống để
sung làm lính phòng thủ quân Chiêm. Số tù binh sung quân này có đến hàng ngàn,
thậm chí gần vạn người. Đây là quân số quan trọng bổ sung cho chiến trường phía
nam, đóng giữ tại trấn Nghệ An, Thanh Hóa. Tuy đội quân tù binh này ô hợp,
nhưng Đại Việt hầu như không có nhiều sự lựa chọn.
Về sau, diễn biến cuộc chiến sẽ cho chúng
ta thấy mặt trận phía nam chịu ảnh hưởng từ kết quả của mặt trận phía bắc. Xét
cho cùng hai nước Chiêm Thành, Chân Lạp tấn công Đại Việt cũng chỉ mang tính
chất theo đóm ăn tàn. Họ chờ đợi một thắng lợi của nước Tống để xâu xé Đại Việt
chứ chẳng dại gì dành phần khó nhọc về mình. Nhất là nước Chiêm Thành đã nhiều
lần nếm mùi thất bại trước Đại Việt nên càng thêm phần thận trọng. Có thể nói
rằng, nếu Đại Việt đánh bại được Tống thì hai nước này không đánh cũng tự rút.
Bởi nếu quân Đại Việt được rảnh tay chiến đấu trên lãnh thổ của mình thì cho dù
hai nước Chiêm Thành, Chân Lạp liên minh cũng không phải đối thủ.
Cuối năm 1076, khi quân Tống tiến đến biên
giới và bắt đầu những hoạt động quân sự đầu tiên, một thế trận liên hoàn trên
toàn lãnh thổ nước Đại Việt đã sẵn sàng chờ đón chúng.
Mở màn chiến tranh, quân Tống đánh chiếm
trại Ngọc Sơn thuộc châu Vĩnh An (Móng Cái ngày nay) để làm hậu thuẫn cho thủy
quân Tống ở Khâm Châu. Ngay khi đại quân của Quách Quỳ còn ở Đàm Châu, tướng
Nhâm Khởi đã dẫn quân tiên phong Tống đánh trại Ngọc Sơn từ cuối tháng 7.1076
và chiếm được trại này vào giữa tháng 8.1076. Với một tiền trạm biên thùy như
trại Ngọc Sơn mà cầm cự được chừng nửa tháng đã chứng tỏ sức phản kháng của
binh lính Đại Việt tại nơi này không hề nhỏ.
Vì vậy mà khi xuống chiếu thưởng công đầu
cho Nhâm Khởi để khích lệ tinh thần quân sĩ, vua Tống phải phê vào “Công
tuy không to, nhưng cũng đã lần đầu làm phấn khích sĩ tốt”.Sau trận này
quân Tống dùng địa bàn trại Ngọc Sơn để kiểm soát châu Vĩnh An, làm bàn đạp
chuẩn bị cho cánh thủy quân. Mặt trận chính yếu trên bộ nằm ở những hướng khác.
Tháng 10.1076 đại quân của Quách Quỳ tiến đóng ở Tư Minh, Bằng Tường giáp địa
giới nước ta, chia quân tấn công các cửa ải để thông đường tiến sâu vào nội địa
Đại Việt.
Nước Tống muốn chiếm Đại Việt, đầu tiên họ
phải đương đầu với hệ thống tiền đồn biên giới và các thế lực dân tộc thiểu số
ở vùng giáp biên hai nước. Trước đây, khi quân Đại Việt đánh phủ đầu nước Tống
đã tập họp được một liên quân lớn, với hầu hết các tù trưởng phía Đại Việt tham
chiến. Sau khi hạ được Ung Châu, còn có những tù trưởng thuộc lãnh thổ Tống
theo về với Đại Việt. Nay Tống mang đại quân xuống, dùng nhiều của cải chiêu
dụ, các tù trưởng phía Tống lần lượt nhanh chóng trở về phe Tống triều. Tống
cũng cho các thuyết khách tới tiếp xúc với các tù trưởng phía lãnh thổ Đại
Việt, dùng nhiều lời lẽ vừa dụ dỗ vừa hăm dọa để lung lạc tinh thần các thủ
lĩnh người dân tộc thiểu số. Ở phía bên lãnh thổ Đại Việt, phản ứng của các tù
trưởng có khác biệt lớn. Có những trường hợp đã chiến đấu rất hăng hái chống
quân xâm lược, chỉ đầu hàng khi bị bức bí không thể làm khác. Có trường hợp sắt
son một lòng chiến đấu tới hơi thở cuối cùng vì Đại Việt. Nhưng cũng có vài tù
trưởng nhanh chóng đầu hàng, thậm chí làm phản bội chỉ điểm cho quân Tống.
Trong số các tù trưởng, trước tiên phải kể
đến là tù trưởng Lưu Kỷ ở châu Quảng Nguyên (Cao Bằng). Triệu Tiết từng nói với
Quách Quỳ: “Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Thân Cảnh Phúc giữ động Giáp, đều cầm
cường binh”. Địa bàn
Quảng Nguyên là một trong những cửa ngõ đầu tiên để quân Tống tiến vào nước ta
theo đường bộ. Chính vì vậy, Lưu Kỷ cùng đội quân của mình là những người sớm
phải đối đầu với đạo bộ binh đông đảo quân Tống. Ban đầu, vua Tống còn nhận
định rằng có thể dễ dàng chiêu hàng Lưu Kỷ. Bởi vì trước kia vào năm 1073, Lưu
Kỷ từng nghe lời xúi dục của quan Kinh lược sứ Quảng Tây là Thẩm Khởi mà xin
nội thuộc Tống nhưng bấy giờ Tống không dám nhận vì sợ sớm lộ mưu thôn tính Đại
Việt. Nhưng thực tế thì trải qua một thời gian gắn bó với quân dân Đại Việt,
cùng chung chiến tuyến Lưu Kỷ đã thay đổi hoàn toàn lập trường, trở thành một
thủ lĩnh trung thành với Đại Việt.
Tháng 12.1076, đại quân Tống từ châu Tư
Minh phía biên giới Tống tấn công châu Quảng Nguyên. Tướng Yên Đạt, Tu Kỷ dẫn
quân nối nhau mà tiến vào địa bàn Quảng Nguyên. Lưu Kỷ cùng 5.000 quân của mình
dựa vào địa thế chiến đấu ngoan cường, bao vây tiền quân của Tống, giết và bắt
sống giặc tới hàng ngàn tên. Nhưng Yên Đạt dựa vào số đông, thúc trung quân
liều chết tới cứu viện, Lưu Kỷ ít quân phải thả lỏng vòng vây và rút lui về căn
cứ. Quân Tống tấn công không thủng nổi căn cứ Lưu Kỷ. Yên Đạt bày kế ly gián,
sai bọn gián điệp trà trộn trong dân chúng phao tin rằng Lưu Kỷ đã ước hẹn sắp
ra hàng quân Tống. Các thủ lĩnh nhỏ ở các động trúng kế, kéo nhau đem quân hàng
Tống trước để yên thân. Lưu Kỷ bị bao vây, bất đắc dĩ cũng phải ra đầu hàng
ngày 1.1.1077. Quân Tống bắt tù trưởng Lưu Kỷ cùng gia đình và các hàng tướng khác
đem về Tống, 5000 quân Quảng Nguyên cũng bị bắt làm tù binh. Quân Tống vào căn
cứ Quảng Nguyên cứu lại được 3000 tên bị bắt trước đó. Các động thuộc châu
Quảng Nguyên và lân cận bị mất về tay quân Tống, bị ép cung ứng lương thực.
Quân Tống từ châu Quảng Nguyên tiến đánh
Môn Châu, tù trưởng Hoàng Kim Mãn, Sầm Khánh Tân ở vùng này đã thông đồng với
Tống từ trước, nhanh chóng quy hàng và làm hướng đạo cho Tống. Quân Tống từ
châu Tư Lăng tiến đánh Tô Mậu, tù trưởng Vi Thủ An cũng nghe lời dụ hàng của
Tống mà hạ khí giới.
Ngày 8.1.1077 cánh quân chính của Quách
Quỳ vượt ải Nam Quan tiến đánh huyện Quang Lang. Quân Tống gặp phải quân của
phò mã Thân Cảnh Phúc và quân triều đình chặn đánh ở ải Quyết Lý. Tại đây, một
trận ác chiến đã diễn ra. Quân Đại Việt có tượng binh giúp sức đã chặn được
quân Tống trong thời gian ngắn và gây nhiều thiệt hại, nhưng quân Tống dùng mưa
tên bắn vào voi và cho số đông quân cầm mã tấu chém vòi voi nên tượng binh quay
đầu chạy, quân Đại Việt do phò mã Thân Cảnh Phúc chỉ huy phải rút lui về ải
Giáp Khẩu (tức ải Chi Lăng) đặt sẵn mai phục chờ giặc. Ải này đặc biệt hiểm
trở, trước đây các tướng phương Bắc đều phải chịu thương vong lớn tại đây.
Quách Quỳ là một tướng lão luyện, dò biết
được có quân mai phục nên không dám tiến vào ải mà chấp nhận đi đường vòng khó
nhọc, dựa theo sự dẫn đường của các phần tử phía Đại Việt đầu hàng. Quân Tống
vượt dãy núi Bắc Sơn đến Yên Thế, là một con đường tắt lợi hại đánh vào phía
sau phòng tuyến của quân Đại Việt. Tại làng Vạn Linh, kỵ binh địch đụng độ đội
quân dự bị của triều đình dùng để chi viện cho ải Giáp Khẩu. Sự xuất hiện của
quân Tống là một sự bất ngờ lớn với quân Đại Việt tại đây bởi đường đi mà quân
Tống chọn rất hẹp và hiểm trở, phải là người thông thuộc mới có thể đi đúng
được. Nhưng dù thế nào đi nữa, quân Đại Việt cũng quyết tử chiến, dựa vào thế
núi cao bắn nỏ và ném đá về phía quân Tống gây thương vong lớn, lại lùa voi ra
đánh giết quân Tống rất nhiều.
Tướng tiên phong Tống là Tu Kỷ phải rất
khó nhọc mới qua được nhờ ưu tiên quân số, hết lớp này đến lớp khác tràn lên
khiến quân Đại Việt thất thủ. Quách Quỳ theo đường vòng ngoài kế hoạch
tác chiến của quân Đại Việt, toàn bộ đội quân mai phục ở ải Giáp Khẩu đứng
trước nguy cơ bị đánh tập hậu và bị tiêu diệt. Lo ngại điều đó, Thân Cảnh Phúc
nhân đêm tối lui quân về giữ rừng núi Động Giáp, chờ cơ hội đánh phục kích
sau lưng giặc. Trong khi cánh trung quân của Quách Quỳ phải đụng trận với Thân
Cảnh Phúc và một số đạo quân nhỏ thì cánh quân của Triệu Tiết theo hướng Bằng
Tường (thuộc Tống) tiến vào Đại Việt, men theo Bình Giã, Vạn Nhai, Nhã Nam mà
tiến và hầu như chẳng gặp phải cản trở gì. Các cánh quân Tống men theo ba ngã
dọc sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam mà tiến như vũ bão, không còn đội quân
nào trong vùng cản nổi bước tiến của giặc nữa.
Chỉ trong vòng chưa đầy 10 ngày, các cánh
quân Tống đã đến sông Phú Lương hội quân, tức là gần sát Thăng Long – trái tim
của Đại Việt. Để đến được nơi này, đạo quân Tống đã bỏ xác tổng cộng gần 1 vạn
quân trên các tuyến biên giới. Quách Quỳ còn trong hơn 9 vạn quân kỵ bộ. Bên
kia bờ sông chính là con đường rộng mở tiến vào kinh thành Đại Việt, tiến vào
vùng đồng bằng trung châu màu mỡ. Từ bến Như Nguyệt đến Thăng Long chỉ cách
chừng 20km. Nếu quân Tống vượt qua được sông, hầu như chắc chắn Đại Việt sẽ
vong quốc.
Nhưng tại đây, quân Tống gặp phải một
phòng tuyến quy mô chưa từng thấy mà Lý Thường Kiệt cùng quân dân Đại Việt đã
cất công dựng lên từ nhiều tháng trước. Đó là phòng tuyến Như Nguyệt chắn ngang
đường thiên lý (con đường lớn xuyên bắc nam). Trên bờ, lớp lớp chông tre và
chiến lũy với hàng vạn bộ binh dàn sẵn. Dưới sông, hàng lớp chiến thuyền Đại
Việt tuần tra. Lúc này thì quân Tống không còn đường nào để đi vòng né tránh
nữa bởi thời bấy giờ đây là nút giao thông gần như duy nhất mà một đội quân có
thể đi qua.
Quân Tống đóng trại ở bờ bắc sông Phú
Lương, ngay ở đoạn bờ bắc bến Như Nguyệt. Quách Quỳ cho lập một hệ thống trạm
chuyển lương dài từ biên giới Tống – Việt đến tận nơi đóng quân. Kế hoạch ban
đầu của Quách Quỳ là đóng quân chờ phối hợp với cánh thủy binh Tống. Tuy nhiên
chúng ta sẽ thấy rằng, thủy chiến chưa bao giờ là điều mà người Việt tỏ ra kém
cỏi. Cánh quân thủy Đại Việt do tướng Lý Kế Nguyên ở mạn đông bắc lúc bấy giờ
cũng đang chiến đấu chặn đường tiến của thủy quân địch. Vận mệnh Đại Việt không
chỉ phụ thuộc vào cuộc chiến đấu trong nội địa, mà còn phụ thuộc vào kết quả
của cuộc chiến giữ các chiến thuyền mạn biển Đông Bắc.
Thủy quân là một bộ phận quan trọng trong
toàn bộ kế hoạch xâm lược của nước Tống. Như các kỳ trước đã nói, thủy quân
Tống thời kỳ này là một đội quân “thời vụ”, được gây dựng vội vàng chỉ nhằm
phục vụ cho cuộc thôn tính Đại Việt. Lính tráng của thủy quân Tống đa phần là
dân ven biển được tuyển mộ và huấn luyện trong thời gian ngắn, còn chiến thuyền
là những thuyền buôn hoán cải. Xét về chất, thủy quân Tống kém Đại Việt xa cả
về lính lẫn thuyền. Bởi Đại Việt là một nước có cơ sở văn hóa sông biển mạnh,
lãnh thổ nhiều sông ngòi và giáp biển, thường xuyên phải dùng đến thủy quân cho
các cuộc xung đột với Chiêm Thành và đánh dẹp trong nước.
Tuy nhiên, sự kỳ vọng của triều đình Tống
cùng tướng Quách Quỳ vào thủy quân Tống không phải là viển vông hay thiếu cơ
sở. Với tiềm lực của một đế chế rộng lớn và đông dân hơn Đại Việt gấp nhiều
lần, nước Tống toan dùng ưu thế số lượng để bù lại sự yếu kém về chất lượng.
Các thuyền buôn mà Tống chọn sung công để dùng cho thủy quân là các
thuyền đi biển cỡ lớn, vừa chở được nhiều quân lính vừa giảm chao đảo khi di
chuyển. Thủy quân Tống có đến hàng trăm thuyền lớn. Mỗi chiếc chở được hơn trăm
lính đến hàng trăm lính.
Quân số đạo thủy quân Tống, theo sách Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của
dân tộc Việt Nam thì
có đến hơn 5 vạn quân, do tướng Dương Tùng Tiên chỉ huy. Dương Tùng Tiên được
vua Tống phong làm An Nam đạo hành doanh Chiến trạo đô giám, phối hợp với một
số quan chức khác phụ trách từ tuyển mộ quân, trưng thu thuyền đến vạch kế
hoạch tác chiến. Thủy quân Tống áp đảo hoàn toàn về số lượng so với thủy quân
Đại Việt phía mạn đông bắc do Lý Kế Nguyên chỉ huy. Thủy quân của Lý Kế Nguyên
chỉ có dưới 2 vạn quân theo như sách Danh
tướng Việt Nam ước đoán Thậm
chí toàn bộ binh chủng thủy quân Đại Việt cũng ít hơn quân số đạo thủy quân
Tống.
Theo kế hoạch ban đầu mà tổng chỉ huy thủy
quân Tống – tướng Dương Tùng Tiên vạch ra là dùng thủy quân đi vòng đường biển
để tiến thẳng vào lãnh thổ Chiêm Thành, phối hợp với quân Chiêm đánh ngược lên
từ phía nam Đại Việt, tạo thành thế gọng kìm. Tuy nhiên trong quá trình thực
hiện, kế hoạch này đã tỏ ra quá sức đối với Tống. Bởi việc cho hàng vạn thủy
quân đi đường biển xa xôi như thế đòi hỏi sự chuẩn bị về hậu cần quá lớn, trong
khi thời gian chuẩn bị thì có hạn. Việc chuẩn bị hậu cần như thế vượt ngoài
tiềm lực của bất kỳ đất nước nào thời bấy giờ, kể cả Tống. Do sự phá sản của kế
hoạch vượt biển vào Chiêm, thủy quân Tống phải chuyển sang kế hoạch mới. Đó là
men theo ven biển đông bắc Đại Việt để xâm nhập vào nội địa theo ngã sông Bạch
Đằng, phối hợp với đạo bộ binh của Quách Quỳ, chở quân sang sông lớn để chiếm
kinh thành Thăng Long.
Thủy quân Tống tập kết ở Khâm Châu, vào
cuối thu 1076 đã vượt biển tiến vào địa giới châu Vĩnh An mà đạo quân của tướng
Nhâm Khởi đã chiếm đóng từ trước đó. Tại Vĩnh An, quân Đại Việt rút lui tạm
nhường trận địa cho giặc. Lý Kế Nguyên âm thầm cho lực lượng thủy quân của mình
đặt mai phục ở sông Đông Kênh, tuyến đường huyết mạch mà ông dự liệu chắc rằng
thủy quân Tống phải đi qua. Vì quân Tống ra quân chiếm Vĩnh An từ rất sớm. Đông Kênh vốn là một dải nước ven
biển giữa đất liền và các hải cảng từ Vĩnh An đến Bạch Đằng.
Đúng như dự đoán, tướng Dương Tùng Tiên
cùng thủy quân Tống tiến quân vào Vĩnh An mà không hề thấy sự chống cự nào của
thủy quân Đại Việt, bèn lệnh cho toàn quân xếp hàng dọc theo dòng Đông Kênh
tiến gấp về hướng cửa sông Bạch Đằng, lọt ngay vào trận địa mai phục của quân
Đại Việt chờ sẵn. Lý Kế Nguyên phát lệnh tấn công, thủy quân Đại Việt dốc toàn
lực đánh dữ dội vào đội hình thuyền địch. Lúc này thì toàn bộ những nhược điểm
của thủy quân Tống bộc lộ. Thuyền Tống to lớn cơ động chậm, bị các chiến thuyền
thực thụ của Đại Việt nhanh nhẹn bao vây tiêu diệt từng chiếc. Quân lính Tống ô
hợp không biết xoay sở thế nào, bị quân Đại Việt tắm máu. Binh thế Tống đứt
đoạn không sao cứu vãn nổi, nhưng vì thủy quân Tống rất đông nên thủy quân Đại
Việt giết không xuể. Dương Tùng Tiên lui thuyền về cửa sông Đông Kênh phía bắc để chỉnh
đốn lực lượng cố thủ. Quân Đại Việt truy kích, giao chiến hơn 10 trận lớn nhỏ
với quân Tống và luôn dành thế thắng, hàng vạn thủy quân Tống bỏ xác nơi đáy
nước. Dương Tùng Tiên thế cùng phải lệnh cho thủy quân tháo chạy ra biển, lui
về tận vùng biển Khâm Châu, Liêm Châu để lập thủy trại. Giờ đây chẳng những
không tiến quân được, trái lại thủy quân Tống còn lo ngại thủy quân Đại Việt sẽ
tràn sang hải cảng của Tống. Dương Tùng Tiên về chẳng dám về, cho thuyền lượn
lờ chiếu lệ trên biển đến hàng mấy tháng trời và gởi thư về đất liền Tống dặn
dò phòng bị :“Vừa rồi, tôi gặp quân liên lạc của giặc mang lệnh của viên
hành quân chiêu thảo sứ bên giặc là Lý Kế Nguyên. Sau đó nhiều lần tôi đánh
chúng, nhưng chúng không có ý khuất phục. Vậy xin hãy ra lệnh phòng bị nghiêm
ngặt ở biên giới để tránh sự bất ngờ”.
Hai viên hiệu dụng là Phàn Thực, Hoàng
Tông Khánh cùng một tốp nhỏ thuyền được Tùng Tiên sai vượt biển xuống Chiêm
Thành để thúc giục Chiêm Thành nhanh chóng tiến quân đánh Đại Việt từ phương
nam. Nhưng đây cũng là một việc làm vô bổ. Bởi vì đường thẳng hầu như là không
thể đi do sự phong tỏa của thủy quân Lý Kế Nguyên, mà đi vòng ra khơi thì đường
biển quá xa xôi, khó mà đưa tin kịp thời cho Chiêm Thành để phối hợp với Tống.
Việc này cũng thừa thải, do trước sứ Chiêm Thành sang đã đồng ý tham chiến rồi
và thực tế thì Chiêm Thành cũng đã cất quân tấn công Đại Việt.
Như vậy là, thủy quân Tống chẳng giúp ích
gì được cho bộ binh Tống ngoài việc phân tán một phần binh lực Đại Việt cho mặt
trận ven biển đông bắc. Lý Kế Nguyên cùng đạo thủy quân dưới trướng tuần tra
vững chắc ven biển đông bắc, khống chế hoàn toàn mặt trận và cắt đứt toàn bộ
liên lạc giữa thủy quân với quân Tống trên bộ. Thảm bại là từ ngữ ngắn gọn để
đánh giá về mặt trận đường thủy của quân Tống. Đoàn thuyền ô hợp nhếch nhác
dưới trướng Dương Tùng Tiên quay trở về bờ nước Tống tận vào cuối tháng 4.1077,
khi mà chiến tranh đã kết thúc rồi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét